Wells Fargo & Company được thành lập vào năm 1852 tại New York, Hoa Kỳ, là một tập đoàn tài chính đa dạng với tổng tài sản là 1,8 nghìn tỷ đô la Mỹ. Ngày nay, Wells Fargo được đổi tên từ năm 1998 khi Norwest mua lại Wells Fargo ban đầu và chuyển đến trụ sở cũ của Wells Fargo ở San Francisco. Wells Fargo và JPMorgan Chase, Bank of America và Citigroup là một trong bốn ngân hàng lớn của Mỹ.
Tổng quan
Hoạt động kinh doanh của Wells Fargo chủ yếu là ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán sỉ, ngân hàng đầu tư và tài chính cá nhân. Đến cuối năm 2010, có hơn 9.000 chi nhánh bán lẻ, 12.000 máy rút tiền tự động và được đánh giá là "sự hài lòng của khách hàng tốt nhất" trong hai năm liên tiếp vào năm 2009 và 2010. Theo số lượng người gửi tiền, cứ ba hộ gia đình ở Hoa Kỳ thì có một hộ chọn dịch vụ của Wells Fargo. Wells Fargo xếp thứ 19 trong "Bảng xếp hạng doanh nghiệp lớn nhất Hoa Kỳ năm 2009" của tạp chí Fortune.
Vào ngày 29 tháng 9 năm 2008, khi Citibank công bố chi tiết về việc mua lại ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ, Wachovia, thị trường thường tin rằng việc mua lại nhất định sẽ thành công, vào ngày 3 tháng 10, Wells Fargo tuyên bố đổi 0,1991 cổ phiếu phổ thông lấy 1 cổ phiếu phổ thông của Wachovia, chuyển đổi thành 7 USD / cổ phiếu để mua lại Wachovia, trị giá 11,7 tỷ USD, và mời ba giám đốc của Wachovia tham gia hội đồng quản trị và phát hành cổ phiếu mới trị giá 20 tỷ USD. Đó là chi nhánh của ngân hàng đầu tư hiện tại, tiền thân của Wells Fargo Securities.
Vào ngày 15 tháng 12 năm 2009, Wells Fargo đã mua lại 23% cổ phần không kiểm soát của Wells Fargo Advisors, một liên doanh môi giới bán lẻ do Prudential Financial nắm giữ, với giá 4,5 tỷ đô la tiền mặt. Prudential tham gia liên doanh vào năm 2003 và ký thỏa thuận môi giới với Wachovia.
Vào ngày 15 tháng 12 năm 2009, Wells Fargo đã bán 489,9 triệu cổ phiếu với giá 25 đô la mỗi cổ phiếu, trong đó 63,9 triệu cổ phiếu được mua bởi các công ty môi giới bảo lãnh. Gây quỹ 12,25 tỷ đô la để hoàn trả khoản vay 25 tỷ đô la của Chương trình cứu trợ tài sản gặp khó khăn (TARP). Rút khỏi cơ chế TARP và trả lại 34% cổ phần do chính phủ nắm giữ.
Wells Fargo đã trở thành ngân hàng lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường kể từ ngày 12 tháng 7 năm 2013, với vốn hóa thị trường khoảng 236 tỷ đô la Mỹ (tính đến ngày 23 tháng 7 năm 2013), nhiều hơn 223 tỷ đô la Mỹ của Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc, phá vỡ kỷ lục ngân hàng lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường trong 7 năm liên tiếp của Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc.
Năm 2019, CEO Tim Sloan của Wells Fargo từ chức khiến cổ phiếu tăng giá, và cố vấn pháp lý C. Allen Parker trở thành CEO tạm thời. Vào ngày 27 tháng 9 cùng năm, Charles Scharf được công bố là CEO mới của công ty.
Vào tháng 2 năm 2021, Wells Fargo đã bán mảng kinh doanh quản lý tài sản cho các công ty cổ phần tư nhân GTCR và Reverence Capital Partners. Sau khi hoàn tất việc bán, Wells Fargo vẫn sẽ nắm giữ 9,9% cổ phần của bộ phận quản lý tài sản và sẽ tiếp tục là khách hàng và đối tác phân phối. Wells Fargo được xếp hạng 37 trong bảng xếp hạng các công ty lớn nhất Hoa Kỳ năm 2021 của tạp chí Fortune. Năm 2021, có hơn 5.200 chi nhánh bán lẻ và 13.000 máy rút tiền tự động.
Lịch sử
Wells Fargo ngày nay được tạo thành từ sự hợp nhất của Wells Fargo cũ ở California và Norwest ở Trung Tây, cũng được chia thành hai phần.